Thứ Ba, 19 tháng 10, 2021
no image



2.

Hôm nay tao mệt quá
Chán ông sếp quá rồi
Hơi tí là quát mắng
Chắc tao nghỉ mày ơi.

Hay cứ về quê thôi
Trồng rau rồi nuôi vịt
Lớn con nào là thịt
Chẳng lo đói mày nhờ.

Sáng có thể dậy trưa
Trưa ngủ luôn đến tối
Chẳng deadline nào đuổi
Chẳng lo ai phàn nàn.

Cứ nghĩ được lang thang
Đi đến đâu tuỳ hứng
Chẳng cam tâm, chịu đựng
Khách mắng vẫn phải cười.

Thế cũng được mày ơi
Nhưng hỏi thêm một tý
Tài khoản mày mấy tỉ
Định mua đất ở đâu?

Để tha hồ trồng rau
Để tha hồ thả cá
Tiền đâu mua vịt thả
Mà lớn cái là xơi.

Tiền đâu mà đi chơi
Khi lương thì không có
Sáng không dậy cắt cỏ
Cá mày ăn bằng gì?

Ừ mày cứ nghỉ đi
Về quê cho nó sướng
Chẳng deadline nào rượt
Nhưng sẽ đói nhăn răng.

Thỏi son này mấy trăm
Cái váy kia gần triệu
Ngồi ngắm đôi giày hiệu
Chỉ dám rớt rãi thôi.

Thôi tao nghĩ kỹ rồi
Ngày mai tao dậy sớm
Cày deadline rồi nộp
Để cho sếp tao vui.

Khách mắng tao cũng cười
Khách chửi tao cũng nhịn
Chỉ cần cứ đến hẹn
Tài khoản lại ting ting.
Lai Ka

1. 
Lâu rồi đã quên cảm giác
Thả một con diều lên trời
Lâu rồi đã quên cảm giác
Nhắm mắt nghe dòng sông trôi
Lâu rồi đã quên mình cũng
Có nhiều mơ ước trong đời
Lâu rồi dường như chỉ biết
Từng ngày, sống từng ngày thôi
Những chiều buồn rầu như thế
Trải đều trên mỗi cuộc đời
Người ta riết rồi ai cũng
Tưởng mình thiếu thốn chơi vơi...
Nhưng mà sau cùng em ạ
Họ vẫn biết yêu cuộc đời!
(Và họ sống hết cuộc đời
Mà chả cần ai cứu rỗi)
- Lâu rồi đã quên | Nguyễn Thiên Ngân 
Nhiều khi trưởng thành là vô tình đánh rơi từng chiếc hồn nhiên trên thảm cỏ dại, trên mỗi bước đi mòn mỏi. Sau cuối chặng đường, khi đã đủ mệt với đủ thứ trên đời này, người ta mới hồi tưởng, mới: à thì ra đã có thời mình mơ nhiều đến thế

READ MORE
Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021
no image

Cái nghèo, người bạn chí cốt không rời. Chúng tôi đã là bạn chí thân từ lúc tôi còn nằm trong bụng mẹ cơ. Tôi là một em bé nghèo, một đứa trẻ nghèo, một thiếu niên nghèo và giờ là một người nghèo. Tôi quen với cái nghèo như thể làm quen với việc tắm gội hằng ngày vậy. Sống một thân một mình, không ai đoái hoài, làm việc mười tiếng đồng hồ mỗi ngày, và nằm ở độ tuổi 20-30, đó là đặc điểm theo nhân khẩu học của tôi. Nhưng đặc điểm tâm thần học của tôi là: một người cô độc đang khát khao tột độ được ai đó để mắt đến.

Công việc phân loại thư chẳng có gì vui. Công việc này không được học sinh trường PN biểu diễn trong tiết mục nghề nghiệp tại buổi lễ hóa trang. Mỗi ngày, tôi ngập đầu trong hàng chục cái bao đựng thư từ từ những đất nước mà ngay cả cáu tên tôi cũng chưa hề biết đến. Mồ hôi bê bết với bụi bặm. Tương lai dành cho tôi là về hưu trong nghèo túng, thường xuyên đến những trạm xá tình thương nhờ vào tiền bảo hiểm của chính phủ, và rồi chết trong tủi sầu không một ai bên cạnh. Sau khi xong việc, tôi mệt quá nên chẳng thể giao du gì với ai, và có lẽ bởi vì quá mệt mỏi và chán nản với những giấc mơ không thành, tôi bắt đầu lâm vào một chứng bệnh điển hình của những người chịu áp lực: mất ngủ. Mỗi đêm, nửa tỉnh nửa mê, tôi lơ mơ nghe những câu chuyện wayang trên radio. Hết câu chuyện rồi mà tôi vẫn không ngủ được, và tôi bắt đầu nằm nghe đài cho đến sáng. Bệnh thần kinh rõ ràng đang dần dần nảy mầm trong người tôi. Sau một đêm khổ sở như thế, sáng sớm – rất sớm, trong khi người Belitong vẫn còn rúc trong chăn ấm đệm êm thì tôi phải lục tục dậy sửa soạn đi làm. Tôi bò ra khỏi giường trong tiết trời giá lạnh và gò người trên con đường dọc theo sông Ciliwing vẫn còn đang phủ mờ sương sớm, xe đến bưu điện để phân loại hàng ngàn lá thư. Khi người Belitong thức dậy, vươn vai ngáp dài rồi rúc lại vào chăn như sâu bướm hay thảnh thơi vừa đọc báo vừa nhâm nhi cốc trà nóng kèm bánh mì nướng, thì tôi cũng dùng bữa sáng của mình – những lời kêu ca từ quý bà người Hà Lan nọ. Cuộc sống của tôi bây giờ là thế đấy. Tương lai của tôi không sáng sủa và tôi không có bất cứ ý niệm gì về những điều mình sẽ đạt được trong cuộc sống này. Mọi thứ đều thiếu chắc chắn. Chỉ có một điều không trật vào đâu được là tôi là một kẻ thất bại. Tôi rủa xả bản thân mỗi lần phải đứng trên sân bưu điệm vào ngày 17 hằng tháng trong buổi lễ chào cờ của Liên đoàn Nhân công Chính phủ Indonesia.

Nếu vẫn còn có gì gọi là tốt đẹp trong cuộc đời tôi thì đó là Eryn Resvaldya Novella. Con bé lanh lợi, ngoan đạo, xinh đẹp và nhận hậu. Hai mươi mốt tuổi. Tôi gọi con bé là người lĩnh thưởng bởi vì nó vừa được nhận phần thưởng dành cho sinh viên xuất sắc nhất tại một trường đại học danh giá nhất Indonesia, nơi nó học ngành tâm lý học. Cha của Eryn là anh tôi, mới bị PN sa thải nên tôi gánh trách nhiệm chu cấp chi phí học hành của đứa cháu gái. Cứ trông thấy Eryn và niềm say mê học tập của nó, thái độ tích cực của nó và sự thông minhánh lên trông đôi mắt nó là những mệt mỏi sau ngày làm việc của tôi chợt tan biến đâu mất. Tôi sẵn sàng làm thêm những công việc linh tinh khác như dịch tiếng Anh, đánh máy, hay phô tô ngoài giờ làm. Tôi hy sinh tất cả, kể cả phải bán đi chiếc máy cát xét, tài sản có giá trị nhất của tôi, để có tiền cho Eryn ăn học.

Một tuần sau khi quăng bản thảo Cầu lông và kết bạn xuống sống Ciliwing, tôi đọc được bản thông báo về một học bổng thạc sĩ tại một nước thuộc Liên minh châu Âu. Tôi liền về nhà, vớ lấy giấy bút rồi ngồi vào bàn, đặt tờ giấy ngay ngắn trước mặt và bắt đầu thảo một kế hoạch với những bước thật rõ ràng. Đây là kế hoạch C của tôi: tôi muốn học tiếp! Tôi học như điên để chuẩn bị thi vào trường Đại học nơi Eryn đang học.

Sau khi tôi thi đậu, cuộc sống của tôi dường như đã biến thành một trận chiến. Tôi làm công việc phân loại thư cả ngày lẫn đêm và làm bất kỳ công việc linh tinh nào có thể tìm được để có tiền trả học phí. Tôi chưa tốt nghiệp đại học, nhưng vẫn quyết tâm giành học bổng thạc sĩ từ Liên minh châu Âu. Tập trung! Tập trung! Đó là câu thần chú của tôi. Tôi nhanh chóng hoàn tất chương trình đại học và không bỏ phí chút thời gian nào, tôi viết đơn xin học bổng của Liên minh châu Âu. Tôi dành toàn bộ thời gian trau giồi kiến thức để tham gia bài kiểm tra giành suất học bổng ấy. Tôi đọc sách cật lực. Tôi đọc trong khi phân loại thư, trong khi ăn, trong khi nằm trên giường nghe những câu chuyện wayang trên radio. Tôi đọc sách trên angkol, xe tải công cộng. Tôi đọc trên becak, xe xích lô, khi ông chủ nói xách mé, và cả trong lễ chào cơ. Nếu người ta có thể đọc trong lúc đi ngủ thì tôi cũng có thể làm được như thế. Có khi tôi đọc trong lúc chơi bóng; tôi thậm chí đọc trong khi đang đọc. Mấy bức tưởng trong phòng trọ đầy rẫy những công thức tính, những bài kiểm tra GMAT, các thì động từ. Vào tối thứ Bảy, tôi đi chợ Anyar ở Bagor. Tại một kaki lima – quầy bán hàng lưu động – tôi gặp một người Minang bán áp phích. Một khuôn mặt hiền lành với đôi kính tròn khiến tôi chú ý. Tôi biết rằng ở quãng đời này tôi cần cái gì đó khơi nguồn cảm hứng, khao khát, hoài bão. Tôi mua một tấm. Tối hôm ấy, John Lennon mỉm cười trên bức tường phòng trọ của tôi. Bên dưới tấm áp phích, tôi viết câu nói giàu ý nghĩa của ông để luôn nhắc nhở mình cần phải tích cực hơn nữa: Cuộc sống là những gì xảy đến với bạn trong khi bạn đang mải mê vạch kế hoạch này nọ.

Tôi mau chóng trở thành vị khách trung thành của thư viện LIPI (Viện Khoa học Indonesia) ở Bogor. Giờ tôi luôn đòi làm ca phân loại thư subub mà trước đây tôi ghét cay ghét đắng để được về nhà sớm học bài. Khi công việc nhiều quá, tôi tóm tắt bài đọc trên những mẩu giấy nhỏ - phương pháp ghi nhớ theo mẹo mà trước đây Lintang đã dạy cho tôi. Tôi đọc những mẩu giấy nhỏ ấy trong khi đợi người giao thư đến dỡ những bao thư từ xe tải xuống. Ở nhà tôi học tới khuya lắc khuya lơ. Lúc này căn bệnh mất ngủ kia đâm ra có ích. Tôi là người mất ngủ làm việc có năng lực dễ sợ. Bất cứ khi nào thấy mệt, tôi lại mở cuốn Giá như họ có thể lên tiếng. Herriot và tôi lại thành bạn chí cốt. Mình phải giành được suất học bổng ấy, Không một lựa chọn nào khác. Mình phải giành được! Đó là những lời cứ vang lên trong lòng tôi mỗi khi tôi đứng trước gương. Suất học bổng đó là một tấm vé thoát khỏi cuộc sống chả có gì đáng tự hào của tôi hiện giờ. 

Bài kiểm tra đầy căng thẳng đó kéo dài liên tục hàng tháng. Nó bắt đầu bằng vòng sơ khảo tại một sân bóng chật ních thí sinh. Bảy tháng sau, tôi vào đến vòng chung kết, phải trải qua mộtbuổi phỏng vấn tại một học viện danh tiếng ở Jakarta. Ở vòng cuối này, người phỏng vấn tôi là một cựu công sứ có gương mặt ưa nhìn và thích hút thuốc. “Một thói quen gớm chết,” tôi nhớ Morgan Freeman nói thế trong một bộ phim. Tôi đến viện và, lần đầu tiên trong đời, tôi đeo cà vạt. Cái thứ đó quả thật không muốn làm bạn với tôi. Một phụ nữ mời tôi vào một căn phòng. Quý ông ưa thuốc lá đó đã an tọa với điếu thuốc gắn trên môi. Ông ta bảo tôi ngồi trước mặt ông và ông quan sát tôi thật lỹ. Hẳn là ông ta nghĩ anh thanh niên nhà quê này chắc chắn sẽ khiến những kiều bào Indonesia ngượng chết đi mất. Rồi ông đọc lá thư trình bày động cơ của tôi – lá thư mà mỗi người tham gia đều phải viết để trình bày lý do họ cảm thấy mình xứng đáng được nhận học bổng. Vị cựu công sứ rít một hơi thuốc thật sâu và rồi, như một trò ảo thuật, không thấy một chút khói nào nhả ra cả, như thể ông nuốt trọn khói vào trong và để nó nguyên trong ngực một lúc. Mắt ông lim dim, chậm rãi chớp vài cái khi ông tận hưởng chất độc nicotine đang được đưa vào người. Rồi, bằng một nụ cười thỏa mãn đến rợn người, ông nhả khói ra và nó trôi thoảng qua trước mặt tôi. Mắt tôi cay sè và tôi cố chống lại cơn ho cùng cảm giác buồn nôn, nhưng tôi có thể làm gì chứ? Người đàn ông ngồi trước tôi đây đang nắm giữ tấm vé tối quan trọng cho tương lai của tôi. Mặc dù cơn nôn mửa gần như không kiềm chế được nữa, tôi vẫn cố ngồi thật ngay ngắn và đáp lại ông ta bằng nụ cười gượng gạo như kiểu của mấy cô tiếp viên hàng không. “Hừm, tôi thích là thư trình bày động cơ của anh đấy. Những lý do anh đưa ra và cách anh diễn đạt bằng tiếng Anh rất ấn tượng.” ông ta nói. Tôi lại cười, lần này giống nụ cười của một nhân viên bán bảo hiểm. Ông ta chưa biết đàn ông Mã Lai vốn khéo ăn nói hay sao, tôi thầm nghĩ. Rồi, vị cựu công sứ xem đến đề xuất nghiên cứu của tôi, trong đó có lĩnh vực tôi tập trung nghiên cứu, tài liệu nghiên cứu và tên đề tài tôi sẽ nghiên cứu nếu tôi nhận được suất học bổng đó. “Ái chà, cái này cũng khá thú vị đấy!” Ông muốn nói tiếp, nhưng điếu thuốc thân yêu của ông dường như quan trọng hơn. Ông ta lại rít thuốc. Tôi dám cá rằng nếu ngực ông ta được chụp X-quang, chắc chắn nó chỉ toàn một màu đen. Người đàn ông này thông minh nổi tiếng, không chỉ trên đất nước này mà còn trên khắp thế giới nữa. Những đóng góp của ông cho đất nước này không phải là ít, vậy sao ông có thể chẳng hiểu gì về khói thuốc? “Ừm, ừm… chủ đề này đáng được nghiên cứu thêm đấy, rất thử thách. Ai hướng dẫn anh viết cái này đây?” Ông mở rộng miệng cười, thong thả nhả khói.Tôi biết đây là một câu hỏi tu từ không cần câu trả lời. Tôi chỉ cười. Trường Muhammadiyah, cô Mus, thầy Harfan, Lintang và đội Chiến binh Cầu vồng chứ ai nữa, tôi thầm trả lời. “Tội đợi rất lâu rồi mới có một đề xuất nghiên cứu như thế này đấy. Rồi nó cũng đến, và lại từ một nhân viên bưu điện! Anh đã ở đâu ngần ấy thời gian, anh bạn trẻ?” Lại là một câu hỏi tu từ nữa, tôi cười, và nghĩ, Edensor chứ đâu. Đề xuất của tôi là nghiên cứu sâu hơn về phương thức định giá chuyển giao. Tôi đưa ra phương thức này chuyên để giải quyết vấn đề giá cả trong dịch vụ lẫn viễn thông, và nó cũng có thể được sử dụng như một phương thức tham khảo để giải quyết những cuộc tranh chấp kết nối giữa những nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Tôi phát triển phương thức đó sử dụng phương trình nhiều biến, nguyên lý trước đây Lintang đã dạy tôi.

Không lâu sau đó, tôi bắt đầu đi học tại một ngôi trường đại học ở châu Âu. Hiện giờ tôi nhìn cuộc sống của tôi từ một góc độ khác. Hơn thế nữa, tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì đã trả được món nợ ân tình cho trường Muhammadiyah, cho cô Mus, cho thầy Harfan, và cho đội Chiến binh Cầu vồng

READ MORE
Thứ Bảy, 5 tháng 6, 2021
no image


Mấy hôm trước có chuyện dân và các nhà sư Khmer Krom bên Campuchia biểu tình, đốt cờ Việt Nam trước sứ quán VN tại Campuchia, mình có xem ở FB của BBCVietnamese và 1 số trang FB đỏ như "Đơn vị tác chiến điện tử" hay báo mạng tiếng Việt thì thấy đa số cmt mang tính dân tộc cực đoan, chửi bới dân Cam là vô ơn, nếu không có VN cứu thì giờ chết ngỏm cả rồi. Mình đánh giá nhưng người đó là trẻ trâu (cho dù có đầy người già), biết cây mà không biết rừng, thành phần này mới dễ bị kích động để thành phân biệt chủng tộc, đổ thêm dầu vào lửa, chung quy là do thiếu hiểu biết. Thực ra mối quan hệ giữa VN và Cam rất phức tạp, không đơn giản chỉ có là VN cứu dân Cam khỏi nạn diệt chủng năm 79, đó chỉ là hệ quả của 1 chuỗi những ân oán kéo dài cỡ bốn trăm năm, mối quan hệ này gắn liền với quá trình mở rộng lãnh thổ VN và đương nhiên là kèm với sự thu hẹp lãnh thổ Campuchia.

Mối quan hệ giữa VN và Campuchia (đúng ra là phải gọi cho đúng quốc hiệu của mỗi thời kỳ, nhưng đây không phải là tham luận ở hội Khoa học lịch sử nên mình cứ gọi tắt là VN, tương tự vậy với tên gọi của Campuchia) bắt đầu có nhiều biến cố kể từ khi chúa Nguyễn (Đàng Trong) hòa hoãn được với chúa Trịnh (Đàng Ngoài), lấy sông Gianh làm giới tuyến. Chúa Nguyễn xác định là không đủ lực đánh ra Bắc nên quyết tâm mở rộng lãnh thổ vào Nam. Đầu tiên là chiếm đất Chiêm thành, đồng hóa người Chiêm, đây cũng là 1 câu chuyện dài, mình sẽ kể vào dịp khác, không lại dài quá, bà con đọc lại chóng mặt. Tiếp sau đó là Chân Lạp (Campuchia hiện nay).   

Mọi sự bắt đầu bằng sự kiện chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Đàng Trong và Chân Lạp trở nên có mối quan hệ hữu hảo. Vua Chân Lạp vì yêu vợ quá nên nhà vợ xin gì cũng cho, chúa Nguyễn xin cho dân Việt được làm ăn, khai hoang ở vùng Sài Gòn, Biên Hòa bây giờ, vua Chân Lạp cũng đồng ý (đúng lại dại gái). Bà con nhớ cho là từ Biên Hòa, Gia Định, Sài Gòn lúc ấy ở trở vào Nam (bao gồm toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long) đang do Chân Lạp quản lý, gọi là Thủy Chân Lạp, để phân biệt với Thổ (hay Lục) Chân Lạp là vùng đất cao, là đất Cam bây giờ. Vùng Thủy Chân Lạp bây giờ bên Cam gọi là Khmer Krom. Đổi lại, quân Đàng Trong cũng mấy lần đánh thắng quân Xiêm giúp Chân Lạp. Quan hệ VN-Cam lúc ấy coi như thông gia nên sang nhà nhau làm ăn cũng không vấn đề gì. Sau khi vua Chey Chetta II chết thì mấy thằng con, cháu đánh nhau chí chóe để tranh ngôi, 1 ông nhờ bà Ngọc Vạn cầu viện chúa Nguyễn, ông khác thì cầu viện Xiêm La (Thái Lan ngày nay). Hai bên đánh nhau tán loạn, kết cục là quân Việt thắng và giành quyền bảo hộ Chân Lạp nhưng Chân Lạp vẫn có vua, phải triều cống cho chúa Nguyễn.  

Sự kiện nổi bật tiếp theo là mấy ông tướng Tàu là Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình nguyên là tướng nhà Minh nhưng không chịu làm tôi nhà Thanh nên đem chiến thuyền và cỡ 3000 quân vào quy phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn vốn hào sảng, tự dưng có thằng đến xin theo thì nhận luôn, nhưng mà thấy đất đai của mình vốn chật hẹp, đa số là rừng núi, đồng bằng không có nhiều, lại thấy nhà hàng xóm có điều kiện, đất đai phì nhiêu, đồng bằng rộng lớn thì xin vua Chân Lạp cho bọn ấy đến khai khẩn ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho bây giờ. Đúng là của người phúc ta, khôn vãi! Bọn người Tàu ấy được "nhập quốc tịch" Việt, giữ nguyên chức tước bên Tàu, nhưng cho xuất khẩu lao động sang Chân Lạp. Vua Chân Lạp cũng phải đồng ý!

Mọi việc êm ả đến năm 1688 thì có biến cố là Hoàng Tiến giết Dương Ngạn Địch để một mình làm chủ đất Mỹ Tho, giết hại dân Chân Lạp rất nhiều. Vua Chân Lạp lúc đó là Nặc Ông Thu nhân dịp đó unfriend với Hoàng Tiến và cả chúa Nguyễn, bỏ luôn triều cống. Thế là chúa Nguyễn đem quân đi dẹp, dẹp xong Hoàng Tiến thì bọn thủ hạ cũ người Tàu giao hết cho Trần Thượng Xuyên (đang cai quản vùng Biên Hòa), rồi đem quân đánh tuốt lên tận Nam Vang (PhnomPenh bây giờ). Dẹp xong thì chúa Nguyễn lấy luôn vùng Biên Hòa mà bọn người Tàu khai phá được trên đất Chân Lạp làm của mình quản lý trực tiếp luôn, đặt tên là dinh Trấn Biên. Lúc đó bên Chân Lạp lại đánh nhau tiếp để giành ngôi nên mặc kệ chúa Nguyễn sát nhập vùng Trấn Biên.

Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược vùng mới sát nhập, lập thêm dinh Phiên Trấn, gồm phủ Gia Định, huyện Tân Bình (là đất Sài Côn của Chân Lạp, sau này người Việt gọi là Sài Gòn). Nguyễn Hữu Cảnh đặt quan cai trị, mộ dân Việt ở vùng Quảng vào sinh sống, người Tàu cũng cho vào hộ tịch. Người Tàu thì cho lập xã Minh Hương, bây giờ vẫn còn điện (đền?) Minh Hương Gia Thạnh ở Chợ Lớn. Đó là nguồn gốc của người Tàu Chợ Lớn.

 Sau này VN lấy năm 1698 là năm kỷ niệm thành lập Sài Gòn. Vua Chân Lạp thấy bị mất đất nên đem quân đánh thì bị Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại rồi giành lại quyền bảo hộ Chân Lạp. Sau đó Chân Lạp lại đánh nhau để giành ngôi vua với kịch bản cũ là bên thì cầu viện Xiêm, bên thì cầu viện Việt, kết cục vẫn như cũ là Việt thắng, Chân Lạp là phải làm đệ chúa Nguyễn. 

Sau này sách VN nói là Nguyễn Hữu Cảnh có công mở cõi ở đất Sài Gòn, Biên Hòa, sự thực là ông chỉ đi sắp đặt hộ khẩu, đặt tên phủ huyện, đưa người Việt vào tiếp quản, còn việc khai khẩn đất này thực tế chủ yếu là do mấy người Tàu. Thế mới hiểu là tại sao văn hóa, lối sống của vùng Sài Gòn sau này lại bị ảnh hưởng nhiều của người Tàu, hơn hẳn ngoài Bắc. Chẳng hạn như tiếng nói, món ăn (ăn ngọt, nhiều món xào), đình chùa thì xanh đỏ tím vàng kiểu Tàu.

 Một đặc điểm nữa mà anh em cũng lưu ý là vùng Mỹ Tho và Hà Tiên vốn do người Tàu khai khẩn nên chắc chắn người Việt vùng đó bây giờ lai người Tàu nhiều nên gái miền Tây nhiều em có nước da trắng bóc, đường nét xinh đẹp khác hẳn với dân gốc miền Tây là dân Khmer có nước da sẫm, đường nét khác hẳn. Tại sao đất Hà Tiên cũng là người Tàu khai phá thì mình sẽ kể tiếp ở dưới đây.  

Có một người Tàu tên là Mạc Cửu cũng không chịu khuất phục nhà Thanh nên chạy sang Chân Lạp năm 17 tuổi. Vua Chân lạp thu dùng, cho phụ trách ngoại thương. Mạc Cửu quan hệ khéo léo với vua quan Chân Lạp nên được yêu, cho ở đất Hà Tiên để khai khẩn. Sau một thời gian khai khẩn thì vùng này trở nên trù phú, lại bị Xiêm la quấy phá, muốn chiếm lấy. Mạc Cửu thấy chúa Nguyễn mạnh hơn Chân lạp nên đem đất Hà Tiên dâng cho chúa Nguyễn, tự nhiên đất Đàng Trong lại được lồi ra thêm 1 cục, làm đại ca hổ báo cáo chồn cũng có cái hay! Đấy là vào năm 1714, chúa Nguyễn nhận đất Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm tổng binh cai quản đất ấy.

Vào năm 1731, quân Chân Lạp và Lào kéo xuống cướp phá đất Sài Gòn, Gia Định, thế là chúa Nguyễn Phúc Trú nhân dịp đem quân lấy luôn đất Mỹ Tho, Vĩnh Long về làm của mình. Đất Mỹ Tho thì cũng nguyên là do Dương Ngạn Địch khai phá, bây giờ chính thức thuộc về Đàng Trong.

Năm 1735, Mạc Cửu chết, con là Mạc Thiên Tích lên nối chức liền đem thêm mấy huyện (chắc mới khai phá được) là đất Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau, Kiên Giang bây giờ dâng cho chúa Nguyễn. Thế là xứ Đàng Trong kéo dài được đến mũi Cà Mau nhưng chúa Nguyễn vẫn chưa quản lý trực tiếp mà vẫn do họ Mạc cai quản.  

Chân Lạp ở thế kẹp giữa Đàng Trong và Xiêm La nên luôn bị 2 bên tranh nhau nhận làm đệ, chúa Nguyễn thắng nhiều hơn. Vua Chân Lạp lúc đó là Nặc Nguyên, do Xiêm La dựng lên nên làm đệ Xiêm La, Nặc Nguyên muốn kiềm chế cả Xiêm lẫn chúa Nguyễn nên cầu viện chúa Trịnh và đem quân đánh dân Chiêm cũ. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư Trinh đánh Nặc Nguyên, Nặc Nguyên thua chạy về trú ở đất của Mạc Thiên Tích, xin lỗi họ Mạc rồi nhờ họ Mạc nói hộ với chúa Nguyễn xin dâng đất cầu hòa. Chúa Nguyễn chê ít không nhận nhưng Nguyễn Cư Trinh hiến kế "tằm ăn dâu" lấn đất dần dần, có nghĩa là dân ít mà chiếm đất rộng cũng chả giữ được lâu, chi bằng cứ lấn dần dần. Chúa Nguyễn nghe theo dùng luôn quân Chiêm cũ đóng ở biên giới với Chân Lạp để kiềm chế, gọi là lấy rợ đánh rợ.   

Sau đó Chân Lạp lại có nội loạn, cũng lại là đánh nhau tranh ngôi. Mạc Thiên Tích dựng Nặc Tôn lên làm vua Chân Lạp, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng Thất Sơn bây giờ) cho Mạc Thiên Tích. Họ Mạc lại dâng lên chúa Nguyễn, đây là vùng đất cuối cùng về với Đàng Trong, vì địa thế hiểm yếu nhất, Chân lạp giữ được lâu nhất. Mạc Thiên Tích chết, con cháu mấy người lần lượt nối ngôi nhưng đến Tử Khâm thì không có người nối dõi. Đất của họ Mạc chính thức về tay chúa Nguyễn quản lý trực tiếp, coi như toàn bộ đất Nam Kỳ thuộc về chúa Nguyễn. Vậy là từ năm 1623, sau khoảng 118 năm người Việt làm chủ toàn bộ Thủy Chân Lạp. Đất Đàng Trong kéo dài từ Quảng Bình đến Cà Mau.

Sau này Tây Sơn đánh đổ chúa Nguyễn, tiêu diệt hết sạch nhà chúa, chỉ có Nguyễn Ánh chạy thoát và được dân vùng Gia Định và Thủy Chân Lạp che chở rất nhiều. Đấy là do dân chúng vẫn nhớ về chúa Nguyễn chứ không theo Tây Sơn (sách sử CS sau này lờ tịt đi chuyện này, toàn lái theo hướng Nguyễn Ánh ăn may mà sống sót). 

Nhà Tây Sơn kiểm soát vùng đất mới này rất lỏng lẻo, Nguyễn Ánh sau khi chạy ra Phú Quốc lại lộn về chiếm được Gia ĐỊnh. Nguyễn Ánh sau khi phục quốc thì vẫn nối tiếp cha ông giành được quyền bảo hộ Chân Lạp, đến đời Minh Mạng thì bảo hộ nốt cả Lào, lập Trấn Tây Thành (1835) ở đất Chân lạp, lập quan cai trị là Trương Minh Giảng (chắc có ý đồ đồng hóa?), sát nhập vào VN. 

Nhưng người Việt bóc lột Chân Lạp hà khắc, dân Chân Lạp nổi lên khởi nghĩa liên miên nên đến năm 1841 (đời vua Thiệu Trị) Trương Minh Giảng phải rút quân khỏi Chân Lạp về An Giang rồi chết ở đó. Cao Miên lại quay về thế bảo hộ của Việt Nam. Như vậy có thể nói đến đời vua Minh Mạng thì nước Việt Nam có diện tích lớn nhất trong lịch sử, bao gồm cả Chân Lạp và phần lớn nước Lào là thuộc quốc. Công cuộc mở cõi chỉ dừng lại khi Pháp chiếm Việt Nam (nghiễm nhiên được luôn cả Campuchia và Lào). 

Sau khi chiếm toàn bộ Đông Dương, người Pháp thấy 3 miền của VN có lịch sử, dân tộc tương đối khác nhau nên chia làm 3 Kỳ cùng với Campuchia và Lào thành 5 "bang" có chế độ quản lý  khác nhau. Pháp cũng phân chia lại ranh giới lãnh thổ của VN và Lào, Campuchia, ranh giới ngày nay chủ yếu dựa trên ranh giới thời đó. Người Pháp đã cắt 1 phần đất đang thuộc VN cho Lào và Campuchia.

Hiện nay ở SG vẫn có đường Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh nhưng lại không có đường Trương Minh Giảng (thời VNCH thì có, là đường chính hẳn hoi, sau 75 thì bị đổi tên thành Lê Văn Sĩ), phải chăng vì Trương Minh Giảng có nhiều "vấn đề" hơn 2 ông kia?

Tất cả quá trình mở cõi của chúa Nguyễn (đồng hóa Chiêm Thành, lấy đất Nam Kỳ) và mối quan hệ giữa VN và Lào, Cam cho đến khi Pháp chiếm Đông Dương thì "chính sử" bây giờ đều viết rất mập mờ, đứt quãng khiến cho đa số dân VN không biết gì về ân oán giang hồ mấy trăm năm của 3 nước, trong đó sâu đậm nhất là Việt Nam - Campuchia. Đấy là lý do để Khmer đỏ, với hậu thuẫn của TQ, đã đem quân chiếm đảo Phú Quốc, chiếm mấy tỉnh miền Tây, căm thù VN đến xương tủy. 

Thời VNCH thì mối quan hệ Campuchia và VNCH cũng không yêu quý gì nhau, ông Ngô Đình Nhu đã có thời điểm định hỗ trợ lật đổ chính quyền Cao Miên nhưng bị lộ dẫn đến mối quan hệ giữa 2 nước bị đóng băng 1 thời gian. Năm 1960 Campuchia thành lập  Mặt trận Giải phóng Kampuchea Krom để nhằm mục đích đòi đất Nam Kỳ của VNCH, sau tổ chức này sát nhập vào FULRO. Có thể đó cũng là lý do Campuchia ngầm hỗ trợ VNDCCH đánh VNCH, vì miền Bắc VN không có tranh chấp lãnh thổ với Cam. Năm 79 quân VN nhân chuyện bị Khmer đỏ quấy phá đã đánh sang Cam, dựng nên chế độ mới cũng là học theo bài của chúa Nguyễn, không khác tý nào. Đến bây giờ dân và sư Khmer Krom biểu tình đốt cờ VN là có lý do sâu xa như đã nói bên trên. Mình viết bài này không nhằm mục đích là kêu gọi trả đất miền Nam cho Campuchia vì ranh giới đã là vấn đề lịch sử rồi, hiện nay có nhưng bộ luật quốc tế để xử lý những tranh chấp kiểu này. Nếu cứ đòi như vậy thì dân Mông Cổ, La Mã, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... phải đòi trước.

Bài học lịch sử 

Quá trình tằm ăn dâu của chúa Nguyễn đối với Chân Lạp chung quy chỉ có mấy bài diễn lặp đi lặp lại. Đầu tiên là tạo quan hệ hữu hảo, cho dân Việt, hoặc Việt gốc Tàu đến nước bạn làm ăn, "khai hoang" để cài chân rết. Tiếp đó là chờ cho nước bạn có nội loạn thì hỗ trợ 1 phe, dựng lên làm vua, thế là đương nhiên ông vua đấy phải chịu ơn mình, phải dâng đất trả công và bị phụ thuộc vào mình. Đất được dâng tặng thì nghiễm nhiên là được, khỏi mang tiếng đánh chiếm bằng bạo lực. Sau đó lại ngồi chờ cơ hội nước bạn bị kích động đem quân quấy phá biên giới là lấy cớ đánh lại rồi chiếm đất luôn, đầu tiên là chiếm 1 số vùng đã được cài người khai khẩn, có điều kiện thì chiếm luôn cả nước bạn. Kế tằm ăn dâu của Nguyễn Cư Trinh không bao giờ lạc hậu, đánh chiếm đất rộng thì chả để làm gì, cũng không giữ được lâu, nên kế lâu dài là lấn dần bằng cách cho dân khai phá, đồng hóa dần dần, sau đó chiếm được đến đâu là chắc đến đấy.

 Quan hệ VN với TQ cũng không khác quan hệ Cam với VN, TQ cũng gây dựng quan hệ hữu hảo với VNDCCH từ năm 49, hỗ trợ VN đánh Pháp rồi đánh Mỹ để giành quyền "bảo hộ", gần đây thì TQ cho người sang VN sống và "khai hoang" ở Tây Nguyên, Vũng Áng, Đà Nẵng... Nếu hiểu mối quan hệ nhạy cảm giữa VN-Campuchia thì chính quyền VN cũng cần phải có cách ứng xử khéo léo với phản ứng của dân Khmer Krom, nhóm dân tộc cực đoan Sam Rainsy. Nếu cư xử không khéo thì TQ sẽ lu loa là VN hành xử 2 mặt, vì quan hệ VN-TQ giống như quan hệ Cam-VN. Chả biết UV Bộ CT VN có mấy người thuộc lịch sử VN, biết được bài học kể trên?

READ MORE
LỊCH SỬ "MỞ CÕI" CỦA VN

 Dương Quốc Chính

Lâu nay SGK lịch sử vẫn dạy HS đại khái là VN ta vốn yêu chuộng hòa bình, giặc đến nhà mới đánh. Ta có được miền Trung (từ Chăm pa) và miền Nam (từ Thủy Chân Lạp) là do ông cha ta "mở cõi" chứ không xâm lược.

Đa số dân VN sẽ bị đóng đinh với suy nghĩ đó, nên giờ mà bị thằng Tây nào chém bô bô là VN xâm lược nước khác là cả nước lên đồng ngay!

Nếu ai chịu khó tìm hiểu lịch sử thì sẽ biết thừa, Đại Việt, rồi Đại Nam ta cũng bành trướng bỏ mẹ ra. Đất Trấn Ninh, Trấn Biên, Trấn Man của Lào giáp tỉnh Nghệ An bây giờ bị Lê Thánh Tông chiếm. Nó cũng phải to ít nhất bằng tỉnh Nghệ An, bị Pháp cắt trả lại cho Lào đấy. 

Thời Minh Mạng còn chiếm đứt 2/3 nước Chân Lạp rồi, xóa cả tên nước họ, đổi thành Trấn Tây Thành, đặt quan cai trị người Việt. 10 năm sau, khi Minh Mạng chết rồi, dân Cam khởi nghĩa kinh quá, vua Thiệu Trị mới phải nhả ra, tái lập Chân Lạp.

 Nước Chăm pa thì Đại Việt ta đánh chiếm lần hồi từ thời nhà Lý, lúc đầu chỉ bắt họ làm chư hầu, đến thời Trần thì lấy được 2 châu do đổi công chúa. Thời Lê Thánh Tông mới bắt đầu sáp nhập, lấy đất 1 phần, bắt họ chia thành các tiểu quốc. Nhưng đến thời chúa Nguyễn thì việc xâm lược Chăm pa rồi Chân Lạp mới mạnh mẽ nhất. Bởi vì chúa Nguyễn không đủ lực để đánh ra Bắc, do yếu hơn, trong khi chỉ có 1 rẻo đất Thuận Hóa nhỏ hẹp cằn cỗi, thế nên các chúa có động lực mà lấn đất vào Nam và sang Tây. Hồi đó Chân Lạp và Lào (lúc đó có các tiểu quốc tên khác nhau) là chư hầu của Đàng Trong chứ không phải Đàng Ngoài. 

Đến thời Minh Mạng, ông xóa sổ hoàn toàn nước Chăm pa, bắt đổi tên địa danh, cho quan người Việt cai trị. Trước đó, vua Gia Long vẫn còn cho người Champa duy trì tính tự trị ở vùng đất cuối cùng của họ, tức là còn được giữ bản sắc văn hóa.

Vua Minh Mạng là ông vua có tinh thần bành trướng Đại Nam nhất trong lịch sử VN. Thứ nhì có lẽ là Lê Thánh Tông. Sách GK lịch sử thường chỉ dạy Lê Thánh Tông như 1 ông vua anh minh, giỏi văn thơ, mà lờ đi tính bành trướng của ông.

Nếu Quang Trung sống lâu, có lẽ ông còn quá cả Minh Mạng!

Còn Lê Duẩn, nếu ông được coi như vị vua, thì độ hiếu chiến và bá quyền chắc không kém gì Minh Mạng! Thậm chí ông còn gấu hơn Minh Mạng 1 tý, vì Minh Mạng còn thần phục nhà Thanh. Nếu nói 1 cách tích cực thì LD là người có tinh thần dân tộc cao độ, thậm chí cực đoan. Tinh thần đó có lợi vào thời chiến, nhưng vào thời bình, để phát triển đất nước, lại áp dụng chủ thuyết CS, thì trở thành duy ý chí.

Tóm lại, Đại Việt ta có phải dân tộc yêu chuộng hòa bình không?

Hoàn toàn không, Đại Việt cũng hổ báo cáo chồn lắm, cứ có điều kiện là đánh chiếm lân bang. Cứ nói thẳng ra như thế cũng chẳng có gì là sai, là xấu, thậm chí cũng đáng tự hào! 

Nhưng tiếc rằng đảng ta lại cứ nhồi sọ dân là dân ta yêu chuộng hòa bình. Vì thế nên thấy thằng nước ngoài nói ra sự thật, đúng tim đen, thì nhảy dựng lên. Làm sao VN lại có thể xâm lược nước khác được?

Đó là lý do tại sao phải nghiên cứu lịch sử cho tới nơi tới chốn. Khi ta biết bản chất ta là ai, bố mẹ, ông bà ta là ai, tốt xấu thế nào, thì mới có thể bình thản khi đương đầu với sự thật. 

Giống như bố mẹ bạn là kẻ cướp, nhưng bạn không biết, ở nhà họ rất tốt với gia đình, dạy dỗ con cái là mình chỉ đi giúp đỡ người khác. Khi gặp thằng bạn nói thẳng ra bố mày là kẻ cướp, thì bạn nổi điên lên để đánh chửi nó. Nhưng điều đó đâu phủ nhận được sự thật?

Trong ảnh là bản đồ Đại Nam thời Minh Mạng. Có thể nhìn thấy lãnh thổ mở rộng đến Biển Hồ ở Chân Lạp. 1/3 phía Bắc Chân Lạp lúc đó thuộc Xiêm (Thái). Phần Thượng Lào lúc đó cũng thần phục Đại Nam. Hạ Lào (Champasak) là còn độc lập. Nếu coi Lào, Cam là thuộc quốc của VN giai đoạn 79-89, thì lãnh thổ VN thời Lê Duẩn là to nhất trong lịch sử, chiếm trọn Đông Dương, chỉ nhỏ hơn Đông Dương thuộc Pháp 1 chút ở 1 số đảo ở HS và TS.



READ MORE
Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021
no image

Tôi vừa ký quyết định cho một bạn nhân viên trẻ nghỉ việc theo nguyện vọng. Lý do không phải bởi người này làm không được việc...

Chúng tôi cũng không có mâu thuẫn trong quá trình làm việc, cũng không phải chuyện lương lậu thiếu công bằng. Nói một cách công tâm, đây là một nhân viên có năng lực, rất hòa đồng, được đồng nghiệp yêu quý. Việc phải chia tay một người trẻ tài năng như vậy, bản thân người quản lý như tôi cũng rất tiếc.

Tuy nhiên, sau khi nghe cậu bạn này trình bày lý do xin nghỉ việc là "muốn tìm một công việc đỡ vất vả hơn, lương thưởng có thể không cao bằng, nhưng có thời gian để hưởng thụ cuộc sống", tôi thực sự không còn cách nào khác để thuyết phục.

Hiện nay, xã hội ngày một phát triển, nhu cầu hưởng thụ của con người cũng ngày một cao hơn. Không thể phủ nhận một bộ phận người trẻ có trong mình tư tưởng YOLO ("you only live once", tạm dịch: bạn chỉ sống một lần duy nhất). Với họ, cuộc sống không chỉ có đi làm, kiến tiền, mà còn phải có hưởng thụ, thậm chí làm bao nhiêu hưởng thụ hết bấy nhiêu.

Tôi từng gặp nhiều bạn trẻ "nướng" toàn bộ số tiền mình kiếm được để đi du lịch từ trong nước ra nước ngoài, mua sắm những món đồ công nghệ hiện đại nhất, trải nghiệm những dịch vụ tân thời nhất. Họ tâm niệm rằng "không ai biết được ngày mai thế nào, nên cứ tranh thủ mà tận hưởng cuộc sống hết mức có thể".

Bản thân tôi thời trẻ cũng từng có giai đoạn nhen nhóm suy nghĩ đó. Đã có lúc tôi tự hỏi bản thân: tiền nhiều để làm gì; tại sao cứ phải lao đầu vào làm việc, kiếm tiền rồi tiết kiệm; cứ lãng phí thanh xuân như vậy, sau này già rồi cầm cả cục tiền cũng để làm gì đâu? Tôi thậm chí còn bỏ việc một thời gian ở một công ty nước ngoài có tiếng, lương tháng cả nghìn USD, chỉ vì quá mệt mỏi, áp lực và mất phương hướng.

Sau đó, tôi ở nhà và vùi đầu vào chiếc điện thoại hay các cuộc tụ tập với bạn bè để đòi lại "tự do" cho bản thân mình. "Cuộc sống của mình có thiếu thốn đến mức đấy đâu, sao phải khổ?", tôi nghĩ vậy. Thế rồi biến cố đến khiến tôi thay đổi tất cả.

Thời điểm đó, mẹ tôi đổ bệnh nặng. Là con cả trong gia đình, nhưng trước giờ, tôi thường không phải quá lo lắng đến chuyện tiền bạc do mẹ có lương, em tôi cũng có công ăn việc làm ổn định. Nhưng giờ, lần đầu tiên tôi bị ám ảnh bởi tiền. Không vậy sao được khi mẹ nằm đó, tiền thuốc men, điều trị ngốn hàng chục triệu mỗi tuần, mà còn không biết bao giờ mới khỏi. Tôi bắt đầu lao đầu vào kiếm việc và đi làm, mục tiêu là nơi nào trả lương cao nhất sẽ làm cho nơi đó, bất kể công việc áp lực đến đâu.

Tôi nỗ lực từng ngày, từng tháng, từng năm, tích góp từng đồng để lo tiền chạy chữa cho mẹ. Trong khi đó, mẹ tôi thương con, không muốn làm gánh nặng cho con cái, nên nhiều khi bà đòi về nhà, không chữa trị nữa vì tốn kém. Những lúc như vậy, tôi mới thấy hối hận vì đã không lo kiếm tiền ngay từ đầu. Giá như tôi cố gắng hơn, làm việc chăm chỉ hơn, bớt đi chút thời gian hưởng thụ cuộc sống để tập trung nâng cao thu nhập, tích lũy tiền bạc, có lẽ mọi thứ đã không vất vả đến vậy.

Cũng may, tôi vẫn còn thời gian để thay đổi và tìm ra định hướng cuộc đời mình. Kể từ sau lần đó, tôi vùi đầu vào làm việc một cách hăng say, cống hiến hết sức mình để hoàn thành mọi công việc khó khăn, áp lực nhất. Nhờ vậy, thu nhập của tôi tăng đáng kể sau mỗi năm, thậm chí tôi còn được thăng chức làm quản lý, có nhân viên cấp dưới. Vậy mới thấy, bạn sẽ chẳng bao giờ nhận ra được giá trị của đồng tiền khi cuộc đời chưa gặp biến cố. Đó là lý do hầu hết những người muốn sống hưởng thụ lại đa phần là giới trẻ - những người ít gặp sóng gió, như người ta vẫn thường nói vui "tuổi trẻ chưa trải sự đời".

Khi các bạn còn trẻ, đừng phí thời gian cho những cuộc vui, cho hưởng thụ, hãy tập trung cho sự nghiệp, nâng cao tài chính của bản thân, có khoản tích lũy và không ngừng gia tăng giá trị tài sản của mình. Hãy học cách tiết kiệm, đừng tiêu xài hoang phí, đừng "nướng" toàn bộ số tiền mình kiếm được cho một thú vui tiêu khiển nào đó. Bởi tiền có thể không phải là tất cả, nhưng ít nhất nó sẽ là chiếc phao cứu sinh khi bạn gặp biến cố, nó sẽ cho bạn một cơ hội để lựa chọn.

Không có tiền, làm sao trang trải được chi phí sinh hoạt cho bản thân mình, làm sao thuốc men cho người thân, làm sao giúp đỡ được họ hàng, làm sao làm từ thiện...? Khi ấy, những chuyến du lịch, những cuộc vui với bạn bè liệu có thể cho bạn kinh nghiệm gì, hay giải pháp nào để bạn vượt qua khó khăn không? Tôi nghĩ là không.

Bởi thế, đừng xem nhẹ giá trị đồng tiền, đừng coi rằng lao đầu vào công việc là ngốc ngếch, lãng phí thanh xuân. Biết đâu đó, những giờ phút tuổi trẻ ít hưởng thụ đó sẽ cho bạn một điểm tựa vững chắc khi ở tuổi trung niên.

Tiền nhiều chưa chắc đã cho bạn những phút giây thảnh thơi những ít nhất sẽ giúp bạn có một cuộc sống an toàn. Có tiền, bạn sẽ có thể làm những điều mình muốn, giúp đỡ khác khi họ cần, làm chủ được cuộc đời của bạn. Có thể bây giờ bạn chưa nhận thấy kết quả ngay lập tức, nhưng những giá trị mang lại sau này chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng.

Tất nhiên, mỗi người sẽ có một quan điểm sống riêng, tôi không dám khẳng định sống thế nào mới là tốt bởi đúng hay sai tùy thuộc vào cách nhìn của bạn. Tôi chỉ hy vọng rằng, các bạn trẻ hãy chậm lại một nhịp, đừng quá vội vàng hưởng thụ khi mới bước chân vào đời để rồi đánh mất đi những bước đà quan trọng cho tương lai sau này.

READ MORE